Tôi
tuy không dùng thuốc mà chỉ chuyên tâm nghiên cứu về huyệt, chủ yếu là
DC nhưng thuốc cũng là một lãnh vực cần dùng trong điều trị bệnh. Gởi
đến bạn đọc trẻ đang học về Đông Y bài viết của Luong Y VÔ THƯỜNG nói về
thuốc.- Tạ Minh
CÁCH DÙNG THUỐC
Dùng thuốc là một nhu cầu tất yếu trong đời
sống “Sinh – Lão - Bệnh -Tử” của loài người. Suốt xưa nay, khắp Đông Tây chưa từng
thấy có việc phủ nhận vấn đề này. Nơi đây không có ý kiến và nhận định cá nhân
mà chỉ dựa theo diễn biến của cách dùng thuốc trải dài theo dòng lịch sử. Cổ
truyền cũng như hiện đại đều chứng tỏ một mối quan hệ không thể tách rời là “Lý
– Pháp – Phương – Dược”, và đã thể hiện rõ ràng trong mọi nghiên cứu áp dụng là
Dược Lý, Dược Pháp, Dược Phương.
1-DƯỢC LÝ:
Lý Sự Chân Thật là pháp tắc của
vạn sự vạn vật trong trật tự vũ trụ. Xưa nay chưa từng có khoa học nào nghịch
lý, dù hiệp lại một ngành Y Dược (thầy thuốc) hoặc chia hai ngành thì Y và Dược
cũng không lìa lý, thực tế thể hiện nơi các từ thường dùng là Y lý, Dược lý.
a/Đông
Y: Với chủ trương thuận tự nhiên và truyền thống Đạo học Khí Hóa, Đông Y đã
có những cách dùng thuốc:
-Cây thuốc (thảo dược) được dùng nhiều hơn
khoáng chất.
-Dùng thuốc toàn phần hoặc bộ phận có dược lực mạnh như hoa trái,
thân lá, củ rễ.v.v.. .
-Áp dụng toàn diện không tách riêng dược
lý, dược pháp và dược phương với mục đích Y Dược nhất quán.
-Dùng nguyên lý Thái Cực (toàn diện), Lưỡng
Nghi (Âm Dương- Biểu Lý- Hàn Nhiệt- Hư Thực), Tứ Tượng (Dương Hàn – Dương Nhiệt
– Âm Hàn – Âm Nhiệt), Ngũ Hành (Mộc – Hỏa – Thổ - Kim – Thủy), Lục Khí (Phong –
Hàn- Nhiệt- Thấp- Táo- Hỏa) để xây dựng Y lý nên Dược lý cùng tùy theo đó mà có
Tánh (Hàn-Nhiệt-Thăng-Giáng),Vị (Chua-Đắng-Ngọt-Cay-Mặn), Qui Kinh (Can- Tâm- Tỳ-
Phế- Thận v.v..).
b/Tây
Y: Với chủ trương theo tiến hóa và sở trường Khoa học Thực Nghiệm, Tây Y đã
có những cách dùng thuốc:
-Lợi dụng cơ giới hiện đại có khả năng phân tích dù bắt nguồn từ
hóa chất, khoáng chất cho đến thảo mộc đều được phân tích thành hoạt chất để
nghiên cứu thực nghiệm.
-Tuy
những hoạt chất cũng có mùi vị (thơm hôi, đắng ngọt) nhưng do dược tánh của hoạt
chất không có dược tính Hàn Nhiệt rõ ràng nên Dược lý Tây Y không luận Hàn Nhiệt
khác hẳn với Đông Y (dù vậy, trong phân loại điều trị cũng có khi họ vô tình
công nhận về Hàn Nhiệt như nói cảm là cảm lạnh nhẹ hơn cúm có triệu chứng bứt rứt,
sốt cao, đau cả người, dễ lây lan thành dịch không khác với Đông Y chia thành
Thương Hàn, Ôn bệnh).
-Kết quả dùng thuốc phần lớn được thực hiện nơi ống nghiệm kế đến
gia súc rồi đến con người nhưng thực tế việc hấp thụ và tác dụng không thể nhất
thời thấu hiểu, đặc biệt là những tác dụng phụ.
2-DƯỢC PHÁP:
Do chủ trương Dược lý khác nhau nên Đông
và Tây Y có những phép dùng thuốc khác nhau:
a/Đông
Y: Với chủ trương thuận tự nhiên nên
cách dùng thuốc của nó có thể sơ lược thành 3 phép:
- Phép lựa chọn:
Tuy sở trường của Đông Y
đa số dùng thảo dược nhưng các bộ phận được dùng cũng được lựa chọn tùy thuộc
nơi bệnh:
.Bệnh tại phần trên (đầu-mặt) thường
dùng hoa,ngọn.
.Bệnh tại phần giữa (ngực-bụng) thường
dùng thân.
.Bệnh tại phần dưới (bụng dưới-chân)
thường dùng rễ, củ.
.Dạng thuốc
cũng được lựa chọn: bệnh cấp dùng thuốc sống, bệnh mãn dùng thuốc chín, thông
thường dùng thuốc thang để tiện việc gia giảm, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu trị bệnh
thì dùng cao đơn hoàn tán .v.v.. .
Ngoài ra để trị ngoài da, khu trùng,
các cố tật; Đông Y cũng tạm dùng khoáng chất, động vật có độc.
-Phép
bào chế:
Rất nhiều vị thuốc được
dùng phải bào chế tỉ mỉ và được phân loại thuốc sống (thảo dược chưa được bào
chế), thuốc chín (thảo dược đã được bào chế). Phép bào chế đầy đủ đã được nêu tại
sách Lôi Công nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp này chỉ sơ lược một vài ví dụ:
.Đốt xém (chích): đưa vào lửa ngọn thiêu
cháy phần ngoài da của thuốc ví dụ dùng Cam thảo chích để loại bỏ chất độc dưới
da của dược thảo này.
.Nấu (thục): như nấu chín nhiều giờ củ
Sinh địa (tính mát, màu vàng, nhập Tỳ) thành Thục địa (tính ôn, màu đen, nhập
Thận) để cải tạo tánh thuốc.
.Phơi: làm cho khô như Sinh khương trị tại
Biểu, Can khương thiên về tính ấm để trị phần giữa và phần dưới.
.Sao:
hoặc tùy thuộc mức độ dùng lửa để biến đổi tánh mát thành ấm như sao vàng, vàng
cánh dán, sao đen (như sao đen vị Toan táo nhân để dẫn hỏa giao thủy khi dùng để
an thần trị mất ngủ); hoặc sao với một loại dẫn dược như Bạch truật sao với cám
để dẫn vào Tỳ, Đỗ trọng sao với muối để dẫn vào Thận.
.Đốt toàn tính (thiêu): làm giảm chất độc
nhưng vẫn giữ tánh thuốc để dùng ngoài da hoặc cầm máu (ví dụ như đốt hạt Tạo
giác, Đại phong tử, Bồ hoàng).
-Phép bảo
quản:
Do chú trọng đặc tính toàn diện
và luật Khí Hóa nên thuốc Đông Y chỉ được
dùng khi việc bảo quản còn giữ được khí vị của thuốc:
.Thuốc thang: dễ biến chất nên dùng trong ngày và bảo quản như một
loại canh trong thực phẩm.
.Thuốc cao: cần bảo quản như một loại mức.
.Thuốc viên đơn: có thể dùng lâu nhưng khi bảo quản cần giữ kín.
.Thuốc hoàn tể: bột thuốc phải khô,đường mật phụ gia phải thắng tới,viên
thuốc phải giữ kín.
.Thuốc tán: bột thuốc phải khô và phải giữ kín vì loại này dễ biến
chất chỉ nên dùng trong hạn 3 - 6 tháng.
-Phép sử dụng:
Chẳng những phù hợp với lý điều
trị mà còn rất chú trọng đến cách dẫn thuốc đến chỗ bệnh và đường hấp thụ thuốc
theo thủy khí (tam tiêu) hoặc hỏa huyết (bào lạc):
.Thuốc thang: Cách uống và cách nấu đều
tùy bệnh; cốt lấy phần khí thì nước ít, nấu mau; cốt lấy phần chất thì nước nhiều,
nấu lâu; cốt điều hòa thì nước và thời gian nấu đều vừa phải, nấu cạn phân nửa
bỏ xác rồi lại nấu đến còn phân nửa; hoặc uống nhanh một lần (đốn phục) để trị
bệnh tại Biểu hoặc bệnh cấp; hoặc uống chậm, nhiều lần (tần phục) để trị bệnh tại
Lý hoặc bệnh hoãn; hoặc chia uống 3 lần/ngày để trị bệnh tại Tấu và là cách thường
dùng.
.Thuốc
cao: thường được dùng trị bệnh phần trên.
.Thuốc
viên đơn: thường được dùng trị bệnh phần dưới.
.Thuốc
hoàn tể: thường được dùng để bổ dưỡng.
.Thuốc
tán: thường được dùng để trị khí huyết toàn thân và tạng phủ phần giữa
(Nhân Sâm bại độc, Hoắc Hương chính khí, Ngũ Vị dị công, Sâm Linh Bạch Truật .v.v..
).
-Phép điều
trị:
Tùy thuộc khí hóa và bộ vị bệnh
mà thực hiện các phép điều trị:
.Hãn: phép làm đổ mồ hôi để giải bệnh ở Biểu.
.Thổ: phép làm cho mữa để trị bệnh ở trên.
.Hạ: phép làm đi ỉa để trị bệnh ở dưới.
.Hòa: phép hòa giải để trị bệnh ở giữa.
.Ôn: phép
làm ấm để trị bệnh lạnh.
.Lương: phép làm mát để trị bệnh nóng.
.Tiêu: phép làm tiêu tán để trị tích kết.
.Bổ: phép xung dưỡng để trị bệnh hư kém.
b/Tây
Y: Sau khi thử nghiệm tính năng, các
hoạt chất được bào chế làm thành các dạng tiện dụng trong điều trị như:
-Thuốc
uống:
.Dạng nước như xirô.
.Dạng viên như viên nén, viên nang, viên nhộng.
-Thuốc
tiêm (hoặc tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh
mạch hoặc chủng ngừa).
-Thuốc
dùng ngoài:
.Thuốc xoa ngoài da.
.Thuốc cao để dán trị bệnh hoặc để xoa chống côn trùng.
.Thuốc sát trùng da hoặc các vết thương.
-Thuốc
trị giác quan thường dùng nước nhỏ giọt hoặc bơm xịt.
-Thuốc xông như dùng
trong trị bệnh hen suyễn.
-Thuốc
đặt như thuốc dùng trị Trĩ, hạ sốt, trị viêm tử cung .v.v..
.
Cách dùng thuốc như vậy nếu chỉ nhìn
theo bề ngoài thì rất tinh vi khoa học nhưng xét kỷ còn nhiều thiếu xót nếu
chưa được quan sát đến chỗ biến đổi dược tính của thuốc khi có kết hợp với các
thể dịch của cơ thể và tính hấp thu thuốc theo hai đường nước và máu của cơ thể
(tác dụng trị đau của Aspirin rất cao khi được hấp thu qua đường nước nhưng dễ
làm loét dạ dày nhưng nếu dùng nó sau khi ăn no thì thuốc trộn lẫn với thức ăn
sẽ được hấp thu theo đường máu và tác dụng trị đau của nó rất kém; một số thuốc
tương tợ như thuốc trị thấp khớp cũng vậy; các trường hợp lờn thuốc do điều trị
không thích hợp hoặc dùng thuốc kháng sinh không đúng cách).
3-DƯỢC PHƯƠNG:
Tùy thuộc chủ trương của Đông Tây
mà có mức độ chú trọng dược phương khác nhau:
a/Đông
Y:
-Noi
theo truyền thống: tuân thủ Đạo học Khí Hóa lập phương có mục đích chỉnh
thể gồm đủ tứ bộ Âm Dương Hàn Nhiệt, thể hiện Đạo Vuông tròn (thuốc trị Dương
Hàn - Dương Nhiệt - Âm Hàn - Âm Nhiệt phối hợp thành các cổ phương dùng trong
Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận, hai thời phương tứ quân và tứ vật .v.v…) . Các
phương thuốc này thường dùng ít vị thuốc mà có hiệu năng cao nhờ kết hợp đứng đắn
lực điều trị của thuốc với sức hấp thụ của từng cơ thể có bệnh tật.
-Đánh mất truyền thống: không lập
phương theo tứ bộ để điều chỉnh toàn diện cơ thể mà chỉ lập theo luận cứ quân
thần tá sứ của triều đại phong kiến để đối trị với giặc bệnh; Các phương thuốc
này có nhiều vị, không được kết hợp rõ ràng nên công năng kém, còn chưa biết sự
dằn co hoặc cản trở nhau giữa các vị thuốc. Lập phương như vậy chẳng những lạm
dụng thuốc mà còn không đáp ứng được mục đích điều trị là đem lại quân bình điều
hòa Âm Dương cho cơ thể.
b/Tây
Y:
Dựa theo khoa học thực nghiệm
nên không chú trọng việc lập phương mà chỉ quan tâm phát huy công năng của từng
hoạt chất hoặc dùng đơn phương hoặc có hợp phương thì cũng chỉ theo xu hướng đối
trị. Cách làm này nếu thực nghiệm được tận nguồn gốc thì có kết quả rất tốt dẫn
đến việc dứt được nhanh chóng cơn bệnh hoặc đem lại cách chủng ngừa; trái lại nếu
còn lờ mờ ở chỗ khác nhau giữa các kết quả thí nghiệm với cơ thể đang được điều
trị thì tính chỉ định và chống chỉ định của thuốc cũng chưa được rõ ràng.
* KẾT LUẬN:
Trong xu thế toàn cầu hóa, kết hợp Đông Tây để
xây dựng một nền Y Dược thống nhất là tất yếu. Cụ thể là cổ truyền cần được
phát huy theo kịp với hiện đại, hiện đại phải trở lại thừa kế tận nguồn để cùng
nhau có sự thăng bằng và điều hòa giữa các cặp Âm Dương xưa nay, Đông Tây, Đạo
học và Khoa học. Ngành Y Dược dù theo đà tiến hóa có chia hai cũng gồm một,
công năng của thuốc không nên chỉ dựa
theo thí nghiệm mà tách rời tính hấp thu, chuyển hóa nơi thân người.
Khoa học dù có tiến hóa đến vai trò lãnh đạo nền Y Dược toàn cầu cũng cần có Đạo
học góp phần định hướng để phát triển vững vàng.
______________________________________________________________________________